Tên khoa học:
Polyscias ịrmicosa (L.) Harms (Panax fruticosum L)
Tên khác:
Cây gỏi cá
Họ thực vật:
Ngũ gia bì (Araliaceae).
Nơi bảo tồn:
Trung Tâm Bảo Tồn Dược Liệu Mộc Châu – Viện Nghiên Cứu, Bảo Tồn và Phát Triển Cây Thuốc Việt.
Mô tả, phân bố:
- Mô tả: Là một loài cây nhỏ, thân nhẵn, không có gai, thường cao 0.8-1.5m. Cây được trồng làm cảnh hay làm thuốc trong y học cổ truyền. Lá kép 3 lần xẻ lông chim dài 20-40cm, không có lá kèm rõ. Lá chét có răng cưa không đều, lá có mùi thơm. Cụm hoa hình chuỳ ngắn 7-18mm gồm nhiều tán, mang nhiều hoa nhỏ, tràng 5, nhị 5 với chỉ nhị gầy, bầu hạ 2 ngăn có dìa trắng nhat. Quả dẹt 3-4mm, dày 1mm có vòi tồn tại.
- Phân bố: Cây được trồng phổ biến ở nước ta. Trước đây không thấy dùng làm thuốc, gần đây do sự nghiên cứu tác dụng bổ mới bắt đầu được dùng. thường đào rễ, rửa sạch đất cát, phơi hay sấy khô.
Bộ phận dùng, thu hái:
- Bộ phận dùng: Trong dân gian thường thấy người ta dùng lá cây đinh lăng, tuy nhiên bộ phận dùng đúng là rễ đã phơi hay sấy khô.
- Thu hái: Thu hoạch rễ vào mùa thu đông sau khi cây trồng trên 5 năm, vào mùa này rễ cây mềm và chứa nhiều hoạt chất. Đào lấy rễ, rửa sạch, bóc lấy vỏ rễ, thái lát, phơi khô ở chỗ mát để giữ nguyên tính chất. Sau khi phơi khô, rễ cong queo, thường được thái thành các lát mỏng.
Công dụng, cách dùng:
Công dụng:
Tác dụng cây đinh lăng theo Y học cổ truyền
- Vị thuốc Đinh lăng dùng làm thuốc bổ, trị suy nhược cơ thể, tiêu hoá kém, phụ nữ sau khi đẻ ít sữa, sản hậu huyết xông nhức mỏi.
- Dùng làm thuốc chữa ho, ho ra máu, thông tiểu tiện, chữa kiết lỵ.
- Thân và cành dùng chữa phong thấp, đau lưng.
- Lá dùng chữa cảm sốt, mụn nhọt sưng tấy, sưng vú.
- Rễ của cây đinh lăng được dùng làm thuốc bổ tăng lực, chữa cơ thể suy nhược, gầy yếu, mệt mỏi, tiêu hoá kém, phụ nữa sau sinh ít sữa. Có nơi còn dùng chữa ho, ho ra máu, đau tử cung, kiết lỵ và làm thuốc lợi tiểu, chống độc.
- Lá chữa cảm sốt, mụn nhọt sưng tấy, sưng vú, dị ứng mẩn ngứa, vết thương (giã đắp). Thân và cành chữa thấp khớp, đau lưng.
Theo nghiên cứu Y học hiện đại
Theo nghiên cứu của Học viện Quân sự Việt Nam, dung dịch cao đinh lăng có tác dụng:
- Tăng biên độ điện thế não, tăng tỉ lệ các sóng alpha, bêta và giảm tỉ lệ sóng delta; tăng khả năng tiếp nhận của các tế bào thần kinh vỏ não với các kích thích ánh sáng;
- tăng nhẹ quá trình hưng phấn khi thực hiện phản xạ trong mê lộ;
- tăng hoạt động phản xạ có điều kiện gồm phản xạ dương tính và phản xạ phân biệt.
Nhìn chung, dưới tác dụng của cao Đinh lăng, vỏ não được hoạt hóa nhẹ và có tính đồng bộ, các chức năng của hệ thần kinh về tiếp nhận và tích hợp đều tốt hơn.
Khi bộ đội luyện tập hành quân được sử dụng viên bột rễ đinh lăng thì khả năng chịu đựng, sức dẻo dai của họ tăng lên đáng kể.
Các nghiên cứu của nước ta cũng cho thấy bột rễ hay dịch chất rễ đinh lăng có khả năng làm tăng sức chịu đựng của cơ thể con người trong điều kiện nóng ẩm, tốt hơn vitamin C và chè giải nhiệt. Đó là tác dụng làm tăng lực của cây thuốc này.
- Dịch chiết rễ và bột rễ đinh lăng có tác dụng kích thích miễn dịch, tăng sức đề kháng đối với bệnh tật.
- Nước sắc, rượu lá đinh lăng có tác dụng ức chế sự sinh trưởng các vi khuẩn sinh mủ và vi khuẩn đường ruột. Nên các chế phẩm đó có tác dụng chống tiêu chảy, nhất là trên gia súc.
Lưu ý
- Với những công dụng nổi bật như tăng lực và trị tắc tia sữa, nhiều người được truyền tai và sử dụng đinh lăng theo các phương pháp dân gian. Dù chưa thật sự hiểu rõ liệu phương pháp đó đã được kiểm chứng khoa học hay có phù hợp với tình trạng của mình hay không.
- Mặc dù đây là một loại dược liệu ít độc, nhưng nếu lạm dụng quá mức nó có thể gây ngộ độc cho người sử dụng. Dễ thấy nhất là tình trạng xung huyết ở gan, tim, phổi, dạ dày, ruột, biến loạn dinh dưỡng.
- Mặt khác, trong rễ cây đinh lăng lại có chứa nhiều saponin – có thể làm vỡ hồng cầu. Dùng cây đinh lăng liều cao có thể gây say thuốc, cảm giác mệt mỏi, buồn nôn, tiêu chảy.