Thiên môn đông

Description

Tên gọi khác:

Điên hách, Địa môn đông, Duyên môn đông, Quan tùng, Vô bất dũ, Cán thảo (Bảo Phác Tử), Tương mỹ, Mãn đông (Nhĩ Nhã), Điên lặc (Bản Kinh), Thiên cức, Bà la thụ, Vạn tuế đằng (Bản Thảo Cương Mục), Thiên đông, Kim hoa, Thương cức, Thiên văn đông (Hòa Hán Dược Khảo), Dây tóc tiên (Dược Liệu Việt Nam), dây tóc tiên, thiên môn đông, sùa sú tùng (H’mông), mằn săm (Tày), đù mào siam (Dao)

Tên khoa học: Asparagus cochinchinensis (Lour.) Merr

Mô tả:

Cây bụi leo, sống lâu năm, dài 1 – 1,5 m, có khi hơn. Rễ củ mâm, hình thoi, có cuống dài, mọc thành chùm. Cành rất nhiều, hình trụ, mọc xoắn suýt vào nhau thành bụi dày, nhẵn và có gai cong, những cành nhỏ biến đổi thành lá gọi là lá diệp chi hình lưỡi liềm, có mài cắt 3 góc, dài 2 – 3 cm. đầu nhọn. Lá tiêu giảm thành những vảy nhỏ

Cụm hoa mọc ở kẽ các diệp chi gồm 1 – 2 hoa màu trắng; hoa đực có bao hoa gồm 6 mành, 6 nhị và nhuỵ lép; hoa cái có bao hoa như hoa đực, nhị ngắn hơn, bao phấn tiêu giảm, bầu thuôn có vài ngăn

Quả mọng, hình cầu, đường kính 5 – 6 mm, màu lục nhạt sau chuyển vàng ngà rồi màu trắng; hạt màu đen

Mùa hoa: tháng 3 – 5; mùa quả tháng 6 – 9

Phân bổ:

Nguồn gốc của thiên môn có thể ở cùng Đông Á bao gồm Trung Quốc và Nhật Bản. Cây mọc tự nhiên và cũng được trồng ở Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam, Lào,… Ở Việt Nam, thiên môn mọc hoang nhiều ở các tỉnh ven biển miền Trung và các đảo lớn như Phú Quốc, Côn Đảo. Ở các tỉnh phía bắc, cây được trồng chủ yếu để làm thuốc, đôi khi cũng gặp trong trạng thái tự nhiên ở một số nơi như Đảo Cát Bà, vùng núi đá tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng (Thuỷ Nguyên) và Thanh Hoá (Hà Trung).

Bộ phận dùng:

Rễ củ, thu hái vào mùa khô ở những cây 2 năm tuổi, loại bỏ rễ con, tắm nước cho mềm, rồi đồ qua. Lúc rễ còn nóng, bóc lấy vỏ hoặc rút bỏ lõi, thái mỏng, phơi hay sấy khô.

Công dụng của Thiên môn đông:

Theo y học cổ truyền, thiên môn được dùng chữa phế ung, hư lao, ho, thổ huyết, nhiệt bệnh, tiêu khát (đái đường), tân dịch hao tổn, táo bón. Nhân dân thường dùng thiên môn làm thuốc bổ chữa ho, sốt. Ở Trung Quốc, một số tác giả đã dùng thiên môn phối hợp với các vị thuốc khác chữa ho gà cho trẻ em đạt kết quả khả quan. Có tác giả đã điều trị cho 61 bệnh nhi ho gà, kết quả đạt 75,4%, còn một số tác giả khác lại dùng thiên môn điều trị 77 bệnh nhi, đạt kết quả 88,6% trong đó, tỷ lệ bệnh khỏi hẳn đạt 38%. Ở đa số bệnh nhân sau khi dùng thuốc 1 – 4 ngày, các triệu chứng ho gà giảm rõ rệt. Ngoài ra, do thiên môn mềm, dẻo và nở to sau khi hút nước, nên một số thầy thuốc đã dùng để nong cổ tử cung bằng cách chọn các đoạn rễ củ dài 5 – 7 cm, đường kính 3 – 6 mm, bề ngoài trơn tru, đem ngâm trong cồn 95 độ rồi đặt vào cổ tử cung. Dược liệu làm cổ tử cung mềm mở rộng và giảm đau

Tính vị:

Vị ngọt, đắng, tính đại hàn

Tác dụng dược lý:

Tác dụng kháng khuẩn: Thí nghiệm trên ống kính, nước sắc thiên môn có tác dụng ức chế sự phát triển của các chủng vi khuẩn như Bacillus anthracis, Streptococcus hemolyticus A và B, B. Diphtheria, Diplococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus, Staphylococcus citreus và B. subtilis.

Ảnh hưởng tế bào ung thư: Thí nghiệm ngoài cơ thể, thiên môn có tác dụng ức chế men dihydrogenase của tế bào bệnh bạch cầu lympho cấp tính, tế bào bệnh bạch cầu hạt mạn tính và tế bào bệnh bạch cầu đơn nhân. Thuốc còn có tác dụng ức chế sự hô hấp của tế bào bệnh bạch cầu lympho cấp tính. Dịch chiết nước thiên môn có tác dụng kích phát sự hoạt động của interferon

Tác dụng diệt ấu trùng ruồi và muỗi: Rễ thiên môn băm nhỏ, ngâm vào nước chế thành dung dịch 0,5 – 1% có tác dụng diệt bọ gậy sau 72 – 96 giờ tiếp xúc, còn với nồng độ 2 – 5 % có tác dụng diệt giòi bọ đạt tỷ lệ 70 – 100% sau 3 – 4 ngày dùng thuốc.

Các tác dụng khác: Hoạt chất asparagin trong thiên môn có tác dụng lợi tiểu. Theo tài liệu nước ngoài (Perry. M Lily) thiên môn còn có tác dụng lợi đờm, giảm ho, hạ nhiệt, lợi tiểu và bổ.

Liều dùng: 

Ngày 6 – 12 g, dưới dạng thuốc sắc hoặc cao, hoàn tán