Tên khoa học:
Curcuma longa L.
Tên khác:
Nghệ vàng; Khương hoàng; Uất kim; Cohem; Co khản mỉn; Khinh lương.
Họ thực vật:
Gừng (Zingiberaceae)
Nơi bảo tồn:
Trung Tâm Bảo Tồn Dược Liệu Mộc Châu – Viện Nghiên Cứu, Bảo Tồn và Phát Triển Cây Thuốc Việt.
Mô tả, phân bố:
- Mô tả: Thuộc cây thân cỏ, cao 0,6 – 1 m. Thân rễ to, phân nhánh thành nhiều củ hình bầu dục, có ngấn, màu vàng sẫm đến đỏ cam, mùi thơm. Bẹ lá ôm lấy nhau tạo thân giả, mọc thẳng từ thân rễ, gốc phiến lá thuôn hẹp, đầu hơi nhọn, dài 30 – 40 cm , rộng 10 – 15 cm, hai mặt nhẵn cùng màu xanh nhạt, mép lá nguyên uốn lượn. Cụm hoa mọc từ giữa túm lá, hình trụ hoặc hình trứng, trên một cán mập dài đến 20 cm. Lá bắc rời, màu rất nhạt. Những hoa ở gốc cụm hoa là hoa sinh sản, màu lục hoặc trắng nhạt, những hoa gần ngọn hẹp hơn pha hồng ở đầu lá. Mỗi hoa gồm 3 lá đài dạng răng, không đều; tràng hình ống dài, cánh giữa dài hơn các cánh bên, màu vàng. Nhị mang bao phấn có cựa do một phần lồi ra của chung đới; nhị lép dài hơn bao phấn; cánh môi gần hình mắt chim, hơi chia 3 thuỳ. Bầu có lông. Quả nang chia thành 3 ô, nứt bằng van. Hạt có áo.
Cây ra hoa vào khoảng từ tháng 3 – 5.
- Phân bố: Có lẽ, Nghệ có nguồn gốc từ Ấn Độ. Ngày nay, Nghệ là một cây trồng quen thuộc ở khắp các nước thuộc khu vực nhiệt đới, từ Nam Á đến Đông Nam Á và cả Đông Á.
Ở Việt Nam, Nghệ cũng là một cây trồng có ở nhiều nơi, từ vùng đồng bằng ven biển đến vùng núi cao trên 1500 m. Ở nhiều nơi, Nghệ đã trở thành loài mọc hoang ở các đồng ruộng, nương rẫy.
Nghệ là loài cây ưa ẩm, ưa sáng và chịu bóng, biên độ sinh thái rộng, thích nghi được với nhiều kiểu khí hậu khác nhau. Toàn bộ phần trên mặt đất cây Nghệ sẽ lụi đi vào mùa đông ở các tỉnh phía Bắc và mùa khô ở các tỉnh phía Nam. Sau đó, cây mọc lại vào giữa mùa xuân.
Bộ phận dùng, thu hái:
- Bộ phận dùng: Thân và rễ cây nghệ
- Thu hái: Tiến hành thu hoạch Nghệ vào mùa đông khi cây lụi đi. Muốn để lâu nên hấp Nghệ trong 6 – 12 giờ, để cho ráo nước rồi đem phơi hoặc sấy khô.
Công dụng, cách dùng:
Công dụng:
Theo y học cổ truyền
Thân rễ Nghệ (hay còn gọi là khương hoàng) có vị cay đắng, mùi thơm hắc, tính ấm, có tác dụng hành khí, phá huyết, thông kinh, chỉ thống, tiêu mủ, giúp lên da non.
Rễ củ (hay còn gọi là uất kim) vị cay đắng, hơi ngọt, tính mát, có tác dụng hành khí, giải uất, lương huyết, phá ứ.
Do đó, thân rễ Nghệ được dùng trong trường hợp kinh nguyệt không đều, bế kinh, ngực bụng trướng đau tức, đau liên sườn dưới, khó thở, sau khi sinh con bị ứ huyết, kết cục gây đau bụng, bị chấn thương phần mềm gây ứ máu, dạ dày viêm loét, ung nhọt, ghẻ lở, phong thấp, tay chân đau nhức, vàng da.
Nghệ tươi đem giã nhỏ, lấy phần dịch bôi lên chỗ bị ung nhọt, viêm tấy, lở loét ngoài da hoặc các mụn mới khỏi để đỡ sẹo.
Curcumin trong Nghệ được dùng màu bao viên, cho ra màu vàng chanh sáng đẹp, bền vững; hoặc nhuộm vàng thực phẩm, nhuộm len, tơ, nhuộm da, giấy.
Nghệ còn được dùng chữa khí huyết ứ trệ, thổ huyết, đau vùng sườn, ra máu cam, tiểu ra máu.
Trong y học Ấn Độ, nghệ được sử dụng để kích thích tiêu hóa, bổ và lọc máu, chữa sốt rét, trộn với sữa nóng trị cảm lạnh. Nước ép nghệ tươi có khả năng chống ký sinh trùng trong nhiều bệnh ngoài da. Dùng bột thân rễ nghệ trộn cùng với vôi được dùng để chữa đau khớp. Cao nước thân rễ Nghệ được dùng cho bệnh nhân có các bệnh về mật.
Trong y học Trung Quốc, Nghệ vừa được dùng làm thuốc kích thích, thuốc bổ, thuốc giảm đau, thuốc cầm máu và giúp tăng cường chuyển hoá. Nghệ được chỉ định trong loét dạ dày, loét dạ dày có xuất huyết (phối hợp với các dược liệu khác), tiểu ra máu và các bệnh khác. Bột Nghệ dùng ngoài dạng bột giúp mau lành vết thương, chỗ bị trĩ, viêm mủ da và bệnh nấm tóc. Mỗi lần uống 8 – 10 g dạng thuốc sắc hoặc hãm.
Ở Nepal, Nghệ được dùng làm thuốc bổ, thuốc gây trung tiện. Hoặc dùng ngoài để chữa bong gân và bôi lên vết thương. Nước sắc thân rễ Nghệ dùng trong viêm tấy có mủ. Với một số bệnh ngoài da do giun sáng hoặc ký sinh trùng có thể dùng nước ép tươi để chữa. Nghệ cũng được xem là một thuốc chống dị ứng.
Ở Đông Nam Á, Nghệ được xem như loại thuốc bổ dạ dày, gây trung tiện, cầm máu, chữa vàng da và một số bệnh gan khác. Dùng Nghệ bôi ngoài da chữa ngứa, làm lành các vết thương nhỏ, vết sâu bọ cắn, phát ban trên da, đậu mùa.
Ngoài ra, Nghệ còn có tác dụng điều trị rối loạn kinh nguyệt, làm tăng tuần hoàn, làm tan cục máu đông, điều trị nhiễm khuẩn đường tiết niệu, đau bụng, đau ngực và đau lưng, hoặc tiêu chảy, thấp khớp, ho, lao phổi. Nghệ cũng là thuốc chống co thắt, trị viêm lợi, diệt côn trùng, diệt nấm, diệt giun tròn.
Theo y học hiện đại
- Hoạt tính kháng viêm
- Nghệ có hoạt tính chống loét dạ dày và loạn tiêu hoá
- Curcumin có tác dụng chống viêm
- Tác dụng kháng khuẩn
- Tác dụng lợi mật
- Khảo sát độc tính cấp và mạn tính của cao cồn nghệ
Cách dùng:
Ngày dùng 2 – 6 g dưới dạng bột hoặc thuốc sắc, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.