Tên khoa học:
Mimosa pudica L
Tên khác:
Cây mắc cỡ, cây trinh nữ, cây thẹn, hàm tu thảo
Họ thực vật:
Ðậu Fabaceae.
Nơi bảo tồn:
Trung Tâm Bảo Tồn Dược Liệu Mộc Châu – Viện Nghiên Cứu, Bảo Tồn và Phát Triển Cây Thuốc Việt.
Mô tả, phân bố:
- Mô tả: Xấu hổ là cây thân thảo, sống ít năm thường hay mọc ven ở bên đường hoặc những vùng đất trống. Lúc mới sinh trưởng, xấu hổ có xu hướng mọc thẳng, hướng lên. Khi trưởng thành, cây thường bò trườn trên mặt đất. Xấu hổ thân nhỏ, phân thành nhiều nhánh, chiều dài thân có thể lên đến 1,5 m. Thân và nhánh có nhiều gai hình móc. Lá xấu hổ hình lông chim, cuống lá hình chân vịt, khi chạm vào sẽ tự động khép lại xuôi theo trục lá. Cuống lá xấu hổ thường dài đến 4 cm và có nhiều lông. Mỗi lá xấu hổ thường có 15 đến 20 chét lá, không có cuống. Hoa xấu hổ mọc ra từ nách lá với cuống hoa dài. Hoa nhỏ, màu tím đỏ, có hình cầu. Quả xấu hổ có hình ngôi sao, quả thắt lại ở giữa hạt, nhiều lông cứng. Quả dài khoảng 2 mm, rộng khoảng 3 mm mọc tụ lại thành một chùm.Mùa ra hoa và quả xấu hổ vào khoảng tháng 6 – 8.
- Phân bố: Xấu hổ là dược liệu có nguồn gốc từ Nam và Trung Mỹ. Xấu hổ cũng phổ biến ở một số khu vực ở châu Á như Thái Lan, Việt Nam, Malaysia,… Ở nước ta, xấu hổ thường mọc ở ven đường, bờ sông hoặc bãi đất trống. Cây thường có xu hướng phát triển ở miền Nam nhiều hơn miền Bắc.
Bộ phận dùng, thu hái:
- Bộ phận dùng: Tất cả các bộ phận của cây xấu hổ đều có thể sử dụng để bào chế dược liệu.
- Thu hái: Cành và lá của cây xấu hổ có thể thu hái vào mùa khô có thể dùng tươi hoặc khô đều được. Rễ xấu hổ có thể đào quanh năm, mang đi rửa sạch đất, bụi bẩn, thái mỏng, phơi khô, bảo quản dùng dần.
Công dụng, cách dùng:
Công dụng:
Theo y học cổ truyền
- Cây xấu hổ thường được sử dụng để điều trị: Suy nhược thần kinh, viêm phế quản, mất ngủ, viêm kết mạc cấp tính, viêm gan, đau dạ dày, sỏi đường tiết niệu, huyết áp cao, phong thấp
- Giã nát, đắp ngoài để điều trị chấn thương, viêm da mủ.
- Rễ cây xấu hổ có thể hỗ trợ điều trị đau lưng, đau nhức xương khớp, tê liệt tay chân, kinh nguyệt không đều.
- Cành và lá cây xấu hổ có thể hỗ trợ điều trị suy nhược thần kinh, mất ngủ, trằn trọc.
- Hạt cây xấu hổ có thể dùng điều trị hen suyễn và gây nôn khi cần thiết.
Theo y học hiện đại
- Tác dụng chống lại nọc của rắn độc: Tại Đại học Ấn Độ một nghiên cứu vào năm 2001 đã ghi nhận dịch tiết từ rễ khô của cây xấu hổ có chứa hoạt chất Minosa. Đây là hoạt chất có khả năng ức chế các hoạt động của men Hyaluronidase và Protease thường tồn tại trong nọc của rắn độc.
- Tác dụng chống co giật: Dịch tiết từ lá cây xấu hổ có thể hỗ trợ chống co giật được gây ra bởi Pentylentetrazol và Strychnin. Tuy nhiên, chất dịch tiết từ lá xấu hổ không thể chống lại các cơn co giật được gây ra bởi N-methyl-D-as partate.
- Tác dụng chống lo âu của xấu hổ được cho là có hiệu quả tương tự như Diazepam. Tính chất có trong cây xấu hổ có thể hỗ trợ điều trị lo âu, trầm cảm thuốc loại Tricyclic.
- Tác dụng chống trầm cảm: Nghiên cứu tại Đại học Veracruỳ (Mexico) cho biết chiết xuất từ lá khô xấu hổ có tác dụng chống lại dấu hiệu của trầm cảm.
- Tác dụng lên chu kỳ rụng trứng: Nghiên cứu tại Đại học Annamalai, Tamilnadu (Ấn Độ) có thể tác động lên chu kỳ rụng trứng bình thường.
Cách dùng:
Rễ cây xấu hổ có thể thái lát mỏng, phơi khô, sắc nước uống. Liều lượng khuyến cáo mỗi ngày không quá 120 g.
Lá và cành có thể dùng tươi hoặc phơi khô đều được. Đối với vết thương hở có thể giã nát cây xấu hổ tươi đắp vào vết thương để cầm máu và giảm đau. Nếu dùng xấu hổ để sắc nước uống liều dùng khuyến cáo mỗi ngày khoảng 6 – 12g.
Lưu ý
- Không dùng cây xấu hổ cho người suy nhược cơ thể và người thiên hàn. Đặc biệt, phụ nữ có thai không được sử dụng cây xấu hổ.
- Không được dùng kết hợp cây xấu hổ với cây Mimosa.